Như tên gọi, thơ Tứ Tuyệt (poème de quatre vers, quadrain), là thể thơ bốn câu, tập trung vào một chủ đề, một cảm xúc hay một suy nghĩ. Đó là một bài thơ ngắn, rất riêng, với đặc trưng là không đổi ý và thường kết thúc bằng một ý bất ngờ. Người đời vẫn cho Thơ Tứ Tuyệt phát xuất từ Thơ Đường bên Trung Hoa, từ Thất Ngôn Đường Luật rồi chuyển dần qua Tứ Ngôn hay Ngũ Ngôn. Riêng ở Việt Nam ta, Thơ Tứ Tuyệt được thể hiện luôn qua Thơ Song Thất Lục Bát, Lục Bát, Thơ Năm Chữ, Bốn Chữ hay thậm chí Ba Chữ!

     Các Thi Hào, Thi Bá thơ Đường Trung Hoa có nhiều thơ Tứ Tuyệt như là một trong những điểm đặc sắc của Thơ Đường được truyền tụng từ đời nầy qua đời khác trong không gian văn nghệ.

     Tôi rất thích thơ Tứ Tuyệt bởi lẽ thơ được trình bày một cách ngắn gọn, nhưng cũng vì ngắn gọn, việc làm thơ Tứ Tuyệt cũng gặp không ít khó khăn vì không dễ dàng diễn tả tập trung vào một ý, một cảnh, một tình, một tâm trạng chỉ qua bốn câu thơ. Không có bố cục mẫu nên nhiều khi Thơ Tứ Tuyệt mở đề tài bằng hai câu đầu, rồi đi đến kết luận bằng hai câu cuối hoặc là câu cuối được dùng để bày tỏ cảm xúc hay mở ra một cảm xúc về hướng khác với đề tài để gây lý thú cho người đọc.

     Nghĩ cho cùng, trong thời đại kỹ nghệ tân tiến, người người chạy đua với thời gian thì việc làm và thưởng thức thơ Tứ Tuyệt là một ưu điểm nhờ sự nói ít mà gợi nhiều suy ngẫm cho người đọc. Lắm khi sự ngắn gọn lại chứa nhiều triết lý sâu xa và mới lạ. Thât không quá đáng khi người Trung Hoa vẫn gọi thơ Tứ Tuyệt là “TUYỆT CÚ” (câu tuyệt diệu). Cần nói là khi thưởng thức loại thơ nầy, người nghe, người đọc thường lặng im, như nín thở để cuối cùng, khi câu chót được lướt qua thì thở dài nhẹ nhõm như vừa tìm thấy một điều mới mẻ thú vị.

     Xin dẫn vài bài Tứ Tuyệt sau đây của vài nhà thơ nổi tiếng về Thơ Đường , Trung Hoa và vài bài của nhà thơ Việt Nam đã thành danh qua nhiều thế hệ:


     Phiên âm Hán Việt:
                    Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
                    Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
                    Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
                    Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

     BẢN DỊCH ( TẢN ĐÀ):
                    Trăng tà, tiếng quạ kêu sương
                    Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ
                    Thuyền ai đậu bến Cô Tô
                    Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San


     Phiên âm Hán Việt:
                    Bồ đào mỹ tữu dạ quang bôi
                    Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
                    Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
                     Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?

     BẢN PHỎNG DỊCH (TRẦN KIÊU BẠC):
                    Rượu quý Bồ đào chén lưu ly
                    Chưa uống mà đàn đã giục đi
                    Đừng cười kẻ say nơi chiến trận
                    Xưa nay chinh chiến mấy ai về?


     Phiên âm Hán Việt:
                         Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi
                         Hương âm vô cải, mấn mao tồi
                         Nhi đồng tương kiến bất tương thức
                         Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?

     BẢN DỊCH (TRẦN TRỌNG KIM)
                         Bé đi, già mới về nhà
                         Tiếng quê vẫn thế, tóc đà rụng thưa
                         Trẻ con trông thấy hững hờ
                         Cười ồ, hỏi khách lạ từ phương nao?




     Nguyên bản tiếng Hán:


(1077-Trich Wikipedia)

     Bản phiên âm Hán-Việt:

Nam quốc sơn hà


                                     Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
                                     Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
                                     Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
                                     Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.


     Dịch thơ:

Sông núi nước Nam


                                     Sông núi nước Nam, vua Nam ở
                                     Rành rành định phận tại sách trời
                                     Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
                                     Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.






                Quả cau nho nhỏ miếng trầu ôi
                Nầy của Xuân Hương đã quệt rồi
                Có phải duyên nhau thì thắm lại
                Đừng xanh như lá bạc như vôi.





Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
Trơ trơ như đá vững như đồng
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?
Non nước đầy vơi có biết không?





Một trà một rượu một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chưà được thứ nào hay thứ nấy
Có chăng chưa rượu với chừa trà!





Cái rét đầu mùa, anh rét xa em
Đêm dài lạnh, chăn chia làm hai nửa
Một đắp cho em ở vùng sóng bể
Một đắp cho mình ở phía không em!





Em khép hồn anh quanh sợi tóc
Anh khóa vòng không số ngực em trần
Lạ chưa, hai đứa cùng ao ước
Kết lứa ngồi chịu án chung thân





Gió bấc giục về, Nương Tử rét
Bạn nghèo không sắm áo nhung tơ
Sương thu gội mãi trên vai giá
Ta lấy gì đây đắp dáng Thơ?





Em ngồi đan chiếc áo len xanh
Hẹn gió thu về gởi tặng anh
Rồi em bỏ đó vào thiên cổ
Anh một đời ngóng áo thiên thanh






                Nằm đêm anh cứ thương em
                Rơi nghiêng nước mắt một bên gối nằm
                Thế nầy cho hết trăm năm
                Đến muôn năm vẫn âm thầm thương em










                           Yêu với không yêu, nói lúc đầu
                           Làm chi như thể phỉnh phờ nhau
                           Hôm ni hôm nớ mong rồi đợi
                           Trăng nở đầy buồng, người ở đâu?



Trần Kiêu Bạc, Bắc Cali 01/2012               

Xin xem tiếp: TKB & “thơ bốn câu”