Trương Phước Lai
Cựu học sinh Phạm Hồng Thái- Thế hệ II.



Thân tặng các bạn của tôi!        



Lớp 5A, 1988-1989, Phạm Hồng Thái!

By: Lai Truong Phuoc on Sunday, 25 April 2010 at 12:32      

Ref: http://www.ltpleiku.com/PhamHongThai/PHT_TruongPhuocLai_ThuoBanDau.html   


     Kỳ thi chọn học sinh giỏi thị xã Pleiku (bây giờ đã là TP Pleiku), trường PTCS Diên Hồng có Phan Thế Thịnh lớp 4D?, Võ Duy Trinh, Đặng Đức Trung, Nguyễn Thị Xuân Mai và Trương Phước Lai – 4A ; Hoàng Huy Cảnh – 4C đỗ môn Toán ; Nguyễn Thế Phiệt lớp 4A, môn Văn. Nhập học lớp 5, có giấy của phòng GD thị xã gửi về trường đề nghị các bạn chuyển xuống học lớp chuyên của thị xã tại trường Hoa Lư 2 (Phạm Hồng Thái). Tuy nhiên, chỉ có Lai, Thịnh, Mai, Phiệt đi, còn Trung, Trinh, Cảnh không hiểu sao lại không đi! Hồi đó, mẹ Trinh, cô Thái (đã mất năm 1995 vì bệnh nặng) đang làm thư viện trường Diên Hồng. Nhà Trinh ở trên đường Trần Phú nối dài, ba Trinh làm ở sở GD. Có thể vì vậy nên gia đình ngại cho Trinh đi học xa chăng ?. Nhà Đức Trung thì mới chuyển ra từ Sài gòn, nên chắc cũng ngại chuyển trường cho Đức Trung. Thế Thịnh thì khá tự lập nên không vấn đề gì. Hình như buổi đi nhập học, chị Nhung mình chở xe đạp cả hai thằng xuống Hoa Lư thì phải. Ai cũng biết đi xe đạp nhưng do gia đình sợ đường xa nguy hiểm nên phải có người chở đi học hoặc là đi bộ.
     Bây giờ thì đi xe máy, thấy gần xịch nhưng hồi đó trong tâm tưởng tụi tôi quãng đường đến trường thật là xa. Hàng ngày đi trên con đường Trần Hưng Đạo rợp hai hàng cây cổ thụ, có xà cừ, thông, long não. Từ lớp 5 đến lớp 9, năm năm trời đến trường gần như hai buổi và 6 ngày trên tuần. Xiết bao kỷ niệm trên con đường đó : đi về cùng nhau, đèo nhau, dầm mưa cùng nhau, đi xe đạp thả tay, xe đạp giàn chở 4 chở 5 (khikhi, nguy hiểm quá) ; chạy đua xe đạp, lạng lách và ép xe nhau, đánh nhau và để ý nhau, vvv… như là câu thơ tuổi mộng : « Vẫn yêu sao con đường Trần Hưng Đạo / Sáng sáng qua cứ liếc ngó nhà ai ». Sau này thành phố phát triển theo kiểu chặt cây, phá nhà ủi đường cho to rộng. Hồi nhỏ chưa ý thức gì. Giờ mới thấy cách làm đó quả là chưa triệt để, nên giữ lại hàng cây cổ thị thì hay nhất và nên làm đường một chiều thay vì mở quá rộng như bây giờ. Lấy ít đất mặt tiền của dân và cơ quan để làm vỉa hè thôi. Con đường sẽ thơ mộng xiết bao. Hình như đến năm lớp 10, 11 gì đó thì mới làm lại đường. Vì bài thơ đăng báo tường năm lớp 10 vẫn còn đầy bóng cây xanh đó : « Hôm nay lại đi trên con đường rợp bóng cây/ Con đường đến trường ngày nao cùng bạn bè chung bước/ Ôi con đường có nơi nào sánh được/ Ta vẫn thầm yêu hai buổi đi về »
     Buổi chiều đầu tiên đến lớp, hình như Lai, Thịnh, Mai, Phiệt tập trung trễ hơn so với các bạn khác. Lớp 5A do thầy Nguyễn Hữu Cư làm chủ nhiệm « Lớp tôi là lớp 5A / Có thầy chủ nhiệm tên là Hữu Cư – Dương Như Thảo». Bây giờ thầy đang định cư bên Mỹ cùng gia đình! Nhớ sao hàm răng hô của thầy, giọng nói của thầy và điệu cười của thầy khi chọc « Nhi Lai thần chưởng ».
     Các bạn cùng lớp, để lại ấn tượng nhiều nhất ngày đầu tiên đó là Dương Như Thảo tức Thảo cận (chuyên Văn, đến từ Hoa Lư 2), với đôi kính dày cộp (bây giờ đã mổ mắt, và cấm giang hồ gọi Thảo cận, nhưng nhớ về ngày xưa thì không thể quên được nhỉ); bạn Phạm Thu Thủy (Toán) và Lê Thúy Nga (Văn, Hoa Lư 2) với mái tóc tém và hai đôi mắt to tròn đen láy, dễ thương dễ sợ ; Trịnh Công Minh già và to xác hơn cả thảy (hắn sinh năm 1974, hơn cả lớp 4 tuổi lận, đến từ Hội Thương 1). Bây giờ thì vẫn nhớ tên cả lớp và nhớ bạn ấy đến từ đâu nữa. Lớp có nhiều Thu Thủy (may mà không có ai trùng họ như hai bạn Trần Thu Hà và cũng may là một bạn chuyên Văn, một chuyên Toán nên gọi là Hà văn (đến từ Hội Thương 2) và Hà toán (Hoa Lư 1)), là Phạm Thủy đã nhắc ở trên vốn học tại Hoa Lư 2 (chuyên Toán) ; Cao Thủy (chuyên Văn) và Võ Thủy (Toán) đến từ Hội Thương 2. Sau này lên cấp 2, còn bổ sung thêm mấy Thủy nữa, sẽ nói sau. Đến hết năm lớp 8, Phạm Thủy chuyển nhà lên Kon Tum do tách tỉnh Gia Lai-Kon Tum còn hai bạn còn lại theo học đến tận lớp 12 của trường chuyên. Đến từ Hoa Lư 1 còn có Đoàn Quốc Tuấn (Toán), Phan Vĩnh Phương (Văn) và Nguyễn Hoàng Nhi (Toán). Đến từ Hội Thương 1 còn có Nguyễn Hiền Vương. Hội Thương 2 có Nguyễn Ngọc Thúy, Ngô Ái Quyên mà sau hay nhại Ngộ Ái Quyên. Chủ nhà Hoa Lư 2 có Mai Quang Anh, Nguyễn Hồng Minh, Phan Thùy Dung, Nguyễn Kim Phượng, Phùng Danh Nguyên, Nguyễn Ý Thơ mà thầy Cư hay trêu là « Ý Thở ». Thống Nhất có Nguyễn Minh Hoàng, Trần Bích Huệ, Lã Nguyên Ngọc. Trà Bá có Đồng Trúc Phượng. Cả thảy có 28 bạn. Quên béng ai là lớp trưởng – Thảo cận hay Công Minh nhỉ ?

     Hồi đó, trường Hoa Lư 2 gồm cả cấp 1 và cấp 2 do thầy Trương Vĩnh Phúc làm hiệu trưởng. Hiệu phó thầy Cao Đạt Nhân và thầy Thất . Có cô Oanh thiệt đẹp làm phụ trách Đội, sau này cô chuyển lên làm ở tỉnh Đoàn. Dạy chuyên Toán là thầy Sanh, chuyên văn thầy Kính nhưng đến khi tập trung đội tuyển thi học sinh giỏi quốc gia, thầy Kính cũng dạy cả môn Toán. Giờ thầy Sanh đã mất, thầy Kính về hưu « …Ta bước ra từ những chiếc nôi / Có mẹ ta ru có thầy ta dỗ / Thầy Sanh của chúng ta giờ không còn nữa / Làm sao còn thấy dáng Thầy nghiêm, thấy nụ Thầy cười / Thầy Kính của chúng ta còn trầm giọng / Ánh mắt sau đôi kính chan chứa bao lời / Dẫu đi hết cuộc đời / Còn ai khác cho ta xưng Thầy-Con nữa / Còn ai gọi ta hoài các con ơi! …» http://www.ltpleiku.com/PhamHongThai/PHT_TruongPhuocLai_ThuoBanDau.html
     Trường Hoa Lư 2 có ba cơ sở : cơ sở chính nằm ở Lê Lợi vốn là trường Phạm Hồng Thái ngày xưa (bây giờ các trường đổi tên theo danh nhân như trước 75 chứ không gọi theo tên phường hành chính nữa), cơ sở hai là trường Tô Vĩnh Diện (sau này dành cho học sinh cấp 1, Hoa Lư 2 chuyển thành trường cấp 2 Hoa Lư) và gần Tô Vĩnh Diện có một cơ sở mà tụi mình học chuyên ở đó, quên béng mất gọi là gì ? Trong các cơ sở, đều có vài phòng tập thể dành cho một số thầy cô sinh sống. Nhà Thảo cận hồi đó ở cơ sở 3 này.

     Trụ sở Phạm Hồng Thái nằm bên cạnh một thung lũng « "...Trường tôi nằm cạnh ở thung sâu..." (Thơ Thầy Kính), lưng dựa vào đồi, hàng rào bên phải cạnh con dốc dẫn từ đường Lê Lợi đi xuống thung lũng, trồng cúc quỳ tức dã quỳ, có mấy chỗ rào bị vạch ra để làm lối đi, một phần để học sinh phi ra đồi tiểu tiện, một phần chắc là để dễ cúp học ? Tụi đàn anh cấp 2 gọi là « Thung lũng tình yêu ». Hàng rào bên phải giáp cơ quan gì nhỉ, quên mất tiêu. Từ cổng trường vào, bên tay phải là phòng hội đồng, phòng hiệu trưởng và hiệu phó. Các lớp học tiếp theo. Đến cuối dãy, tách rời một chút là các phòng tập thể giáo viên. Dãy nhà ngang là các phòng học. Hai dãy nhà này nằm ở hai cạnh một sân đất rất dốc. Mãi đến những năm 2000 mới được xây lại dãy nhà ngang thành nhà hai tầng, và láng xi măng bằng phẳng sân đất. Bên tay trái cổng trường có bãi gửi xe đạp. Tiếp theo là một sân đất bằng phẳng và có hình chữ nhật, đá bóng rất tuyệt. Hồi đó, ra chơi được phép đá bóng nhựa. Phía hàng rào bên trái là dãy lớp học. Ban đầu chỉ đến một nửa hàng rào, sau xây thêm mấy phòng vào năm học lớp 8.
     Trong lớp, Vương rất là dễ thương, mập mạp, trắng trẻo và học giỏi thuộc hàng đầu của lớp. Hình như có một câu chuyện về Bác Hồ thời hoạt động bí mật , có lấy biệt danh anh Vương, nên thầy Cư và cả lớp gọi Vương là Bác Hồ. Thầy Sanh thì cưng Vương lắm. Nhà Vương mập lúc đó ở con hẻm đường Sư Vạn Hạnh, gần chùa thầy Năm, cũng là gia đình phật tử nên có đeo cái vòng bằng đồng ở tay trái giống Lai và Thịnh. Vương mập cũng khác các bạn ở lớp ở chỗ thuận tay trái, nhưng vẫn viết bằng tay phải vì nhà trường bắt buộc chứ không thoải mái như tụi Tây, viết tay nào cũng được. Nhà Minh thì cuối đường Sư Vạn Hạnh, gần giáp con suối chảy từ đồi 42. Từ nhà nó đi vòng vèo một chặp thì sang được nhà thằng Thịnh ở đường Quyết Tiến, gần hồ Diên Hồng bây giờ. Nên Minh và Vương hay đi với nhau, có khi học nhóm chung nữa. Sau này hình như Vương được ba má mua cho cái xe đạp giành cho trẻ em, nên nó tự đạp xe đến trường, tụi trong lớp hay mượn đạp lòng vòng sân trường chỗ học lớp chuyên. Buổi sáng học chuyên, buổi chiều học lớp bình thường. Thằng Tuấn thì đen nhẻm, gầy và có mái tóc vàng do cháy nắng. Phương thì còm nhom. Thằng Tuấn có cái xe đạp phượng hoàng Tiệp Khắc, thời đó đắt tiền lắm, nhưng đi học hình như là dựng xe phía ngoài lớp học luôn, chứ chưa có bãi gửi xe như sau này. Lớp học xây cao hơn mặt sân khoảng 1m nên nhiều khi không quan sát được bên ngoài. Một hôm, thằng Minh và mấy đứa nữa chọc Lai là Lai điên, thế là Lai ức quá, khóc và xông vào đánh, đánh không lại nhưng bù lại, thầy bắt tụi nó (Minh, Tuấn beo và ai nữa cà) viết bản kiểm điểm và viết phạt trăm lần, đại khái Từ nay xin hứa không chọc bạn Lai nữa. Hôm sau, tụi nó đang chép phạt thì phát hiện mất xe đạp của Tuấn, cả lớp kéo nhau đi tìm, nhưng không thấy. Nói chung nhớ mãi.
     Lúc chọn đội tuyển đi tập trung học để thi kỳ thi học sinh giỏi quốc gia (gọi là cường tập) ở trường Tuyên Đức (do Tàu xây từ thời trước 75 nên gọi thế và nay là trường bán công Phan Bội Châu), thầy Sanh và thầy Kính dựa trên điểm các kỳ kiểm tra. Đợt kiểm tra cuối cùng, Lai rai làm sai một dạng bài quen thuộc, nghe các bạn kể lại, Thầy Sanh phê vào bài như sau : Nếu có em ở đây, thầy đã cho em một tát tai. Bởi vì thầy hy vọng vào mình là đứa cuối cùng của danh sách, thế nhưng mình đã không làm được một bài quá dễ. Đứng cuối danh sách là Hoàng Nhi, còn Lai ở lại Hoa Lư 2. Kỳ thi quốc gia Toán năm đó, có Hiền Vương và Thế Thịnh đoạt giải cao. Văn hình như là Ngọc Thúy và Như Thảo. Đấy, không ôn lại là quên mất. Một chuyện còn khủng hoảng hơn nữa là mùa nghỉ hè, ham chơi lắm, bỏ bê sách vở, quên sạch kiến thức, tự nhiên được thông báo phải đi thi tốt nghiệp cấp 1 vào tháng 8, thế là Toán được 0,5 điểm, sau này bị thầy Nhân chọc quê mãi !!! Đó cũng là những thất bại đầu tiên để biết xấu hổ, biết cố gắng vươn lên sau này. Có lẽ, mình sẽ mãi cám ơn con 0,5 điểm tình thương này và thầy Nhân.
     Ngọn đồi và thung lũng cạnh trường là nguồn cảm hứng vô tận để chơi vui. Giờ giải lao hoặc trước giờ vào lớp (đến sớm), cả trai và gái hay xuống dưới thung lũng để uống nước và rửa mặt từ nước ngầm chảy ra một ống tre và được gọi là « Giọt nước ». Xuống dốc và leo lên dốc, dọc đường hái mấy cái lá non chua chua và ăn được – cái này thì thằng Hoàng là đầu trò, hay ăn trái nho dại hoặc mận rừng. Có lúc thì trèo lên đồi, chui ra chui vào mấy bụi tre, chẳng sợ gì rắn rít cả, nghĩ lại cũng ớn, nếu mà gặp rắn lục thì toi quá. Ngày qua ngày, phạm vi và độ cao dần mở rộng, có lẽ đến hết năm lớp 9, mới là hết cơ hội đi ra đó.

            « …Có gì trong nhau hơi thở ta ơi!
            Bạn có nhớ ngày xưa mình cùng lớp
            Ngọn cỏ gà, cỏ may nhai nghe ngòn ngọt
            Ta ngậm ngang môi làm chú dế mèn
            Đá cầu, nhảy dây, đuổi bắt, trốn tìm
            Áo trắng lấm lem sân trường đất đỏ
            Mặc cái buổi ban đầu bở ngở
            Từ bốn hướng về lớp chọn, trường chuyên
            Con trai, con gái chơi riêng
            Giờ sinh hoạt cuối tuần cãi nhau đến khóc
            Mà rất đại kết đoàn trong những lần trốn học
            Băng rào, ra đồi bám nhau trèo leo
            Ta bé bỏng tưởng vách đồi là núi
            Những bụi tre gai lau sậy um tùm
            Năm rồi năm, ‘thám hiểm’ hoài mòn lối
            Đỉnh đồi đã nằm phía dưới bàn chân
            Những bụi mận rừng không sao còn trái chín
            Hái lá rừng nhai cũng chua chua
            Đã đượm vào trong hơi thở ta chưa?

            “...Trường tôi nằm cạnh ở thung sâu..." (Thơ Thầy Kính)
            Ruộng lúa rờn xanh, cánh cò trắng phau
            Dã quỳ vàng con dốc
            Xuống giọt vốc nước trong
            Bèo rong tanh tanh bùn
            Khói rơm, khói rạ
            Đã đượm vào trong hơi thở ta chưa?”

    Tụi tôi hồi đó thân nhau lắm, nên bạn đừng ngạc nhiên khi tôi nhớ kỹ đến thế. Mà tôi có cái tật nhiều khi rất nhớ những chuyện như vậy. Lớp 1 đến lớp 4, tôi nhớ được hai phần ba lớp. Lớp 5 đến lớp ĐH, tôi nhớ họ và tên tất cả. Mà chả hiểu sao tôi nhớ được nữa. Ôi, có lẽ số tôi sau này hay làm chuyện hàng tổng chăng? Bạn bè ơi, mọi người giờ đang làm gì? Một số bạn bè học lên cùng nhau đến tận lớp 12 thì vẫn có tin nhau. Chỉ có Phan Thế Thịnh dạo này mất tích. Lâu thật lâu chưa gặp lại Nguyễn Minh Hoàng, hắn từ dạo chuyển lên Kon Tum năm lớp 8 thì mấy khi gặp nhau đâu! Xuân Mai nghe nói lấy chồng và làm bên Đoàn ở Nha Trang. Đồng Trúc Phượng thế nào? Trần Thu Hà Văn và Toán ra sao, Nguyễn Thế Phiệt nữa. Phan Thiên Dung thì chuyển về Huế cùng gia đình, lâu cũng không có tin tức. Trần Công Minh sau này do gia cảnh mà vướng phải vòng lao lý, giờ đã thế nào? Bạn bè ơi, mọi người có đôi khi nhớ và đặt câu hỏi này chăng? Có thể không, nhưng Lai rai lại không thể, có những chuyện thuộc về trách nhiệm và Lai rai tự cho mình có trách nhiệm đó. Hôm nay ráng viết ra những dòng này, tự nhủ, giờ có ra đi như Bảy Nổ cũng đỡ bận lòng. Thèm một lần về hô hào tụ tập, làm bữa tiệc nhẹ, mời họp mặt lớp 5A và các thầy cô. Để xem tuế nguyệt trải qua mỗi người thế nào! Để ôn lại kỷ niệm xưa! Để vvv...

            “...Kỷ niệm là rêu trong lòng giếng
            Có gì trong nhau hơi thở ta ơi!
            Cái thuở ban đầu lưu luyến
            Có thẳm sâu trọn đời !!! “

    Vâng, với tôi, nó thẳm sâu trọn đời, là tiền đề và bất biến!
    Bài này làm nhân dịp cuối đông 1998, vừa về quê ăn tết ra, nên nỗi nhớ và kỷ niệm đong đầy, viết một mạch là xong, sau đó gửi Nga, nhưng Nga cũng chả chịu phổ biến gì mấy.



*****


Phạm Hồng Thái, lớp 6,7, 8: 1989 đến 1992

By: Lai Truong Phuoc on Sunday, 25 April 2010 at 14:36      



    Lên lớp 6, lớp bổ sung thêm một số bạn. Ng. Thùy Dung, Lê Văn Dương (hắn sinh năm 75, từ Bắc chuyển vô), Phùng Quốc Huy (trước nhà ngay cạnh Diên Hồng 1, học cùng Lai từ lớp 1 đến lớp 4, sau nhà chuyển xuống đường CMT8 nên chuyển sang học ở HL) ; Ng. Hoài Nam, Võ Quốc Phong, Ng. Thị Thanh Thủy, Ng. Thị Bích Vân và …Vinh. Lớp 8, có Ng. Thị Minh Hiền (Toán) và Ng. Thị Thanh Mai (Văn) chuyển vào học. Ah, bây giờ mới nhớ thằng Hải tặc (Nguyễn Văn Hải chăng?). Rồi Nguyễn Thị Thu Hiền hay Hiền đen nữa chứ nhỉ, nhà ở Phan Đình Phùng ấy!
    Lớp 6, cô Nguyễn Thị Sương chủ nhiệm, dạy môn Văn. Chẳng hiểu sao, cô lại bênh con trai hơn con gái. Sau đó hai năm, cô chuyển lên dạy Yên Đỗ và thật lâu chưa gặp lại cô. Chính nhờ cô hay khuyến khích tôi làm thơ, nên giờ mới biết làm thơ đó chứ ! Giữa học kỳ hai, Trịnh Công Minh xin nghỉ học, cô Sương và một số bạn đạp xe đến nhà, nhưng không thể vãn hồi. Từ đó, thằng Minh dấn thân vào con đường giang hồ. Ba má nó ai cũng có võ, các anh trai của nó cũng giang hồ, và nó cũng không thoát khỏi guồng quay đó. Còn nhớ, tụi du côn quanh trường có đám anh em nhà thằng Tín-Nghĩa thuộc diện mạnh nhất. Một hôm chúng nó chặn đường định hiếp đáp tụi tôi, thì thằng Tín bị Công Minh tung cho hai đấm. Sau tụi nó đuổi theo, nhưng cả đám con trai đồng lòng đi cạnh nhau, tụi nó cũng chẳng làm được gì. Sau này, một lần nữa có thằng Đạt, đàn em thằng Minh Thu Hương đi tìm Tuấn beo, kéo ra cái hẻm trước cổng trường đánh nhau. Song Tuấn beo cũng quen thằng Minh, nên cũng qua chuyện. Chứ đám lớp tôi cũng chẳng bị ai bắt nạt. Nhất là tụi nó đá bóng cũng không hơn gì nhiều tụi tôi, vì vậy cũng chơi được với nhau, biết vài thằng như thằng Thuật mập, tụi đầu gấu khác cũng chẳng sinh sự làm gì.
    Năm lớp 6, tụi con trai ghét nhất cô Hiền dạy môn Anh văn, nên dốt tiếng Anh là zậy đó. Năm lớp 7, cô Ng. Thị Tuyết Mai làm chủ nhiệm và dạy môn Anh văn. Có một lần trống tiết, cô đòi dạy bù, tụi tôi ham chơi không chịu học, thế là cô bắt viết kiểm điểm. Tụi con trai bàn nhau và bàn cả lớp chống đối không nộp. Nhưng sau có mấy bạn gái nộp. Nhớ mãi. Lớp 8 thì cô Sửu dạy Hóa làm chủ nhiệm. Hai năm lớp 6, 7, học bên dãy nhà liền với phòng hội đồng. Cái bảng đen là tường đánh bóng xi măng và quét dầu hắc. Viết phấn rồi lau đi thì mờ ảo khó viết và nhìn lắm. Nên thằng Thịnh có sáng kiến nhặt rau khoai lang, đập nát rồi trộn với nhọ nồi để quét lại bảng, sau đó dùng ngon lành một tuần. Tụi con trai thường xung phong lao động này, chủ yếu đến trường chơi nữa. Các trò hay chơi là ném bóng, đá bóng, nhảy cao, nhảy xa hoặc ra đồi hoặc xuống thung lũng chơi. Buổi chiều, tụi tôi học môn chuyên khoảng ba buổi tuần, bữa học nhiều giờ, bữa ít giờ. Nói chung trước khi vào lớp và sau khi tan học, chơi đã lắm « Đá cầu, nhảy dây, đuổi bắt, trốn tìm / Áo trắng lấm lem sân trường đất đỏ ». Hồi đó, mỗi tuần là một tổ trực nhật, phân công quét lớp, lau bảng, cắm hoa, trải khăn bàn giáo viên. Mỗi tuần, một lớp trực cổng một lần và phụ trách hát quốc ca buổi chào cờ sáng thứ hai. Mỗi lớp cử ra hai bạn làm cờ đỏ. Đi chấm điểm lớp đã được liên chi đội phân công. Bây giờ không còn nhớ ai làm lớp trưởng nữa. Thứ hai hàng tuần xếp hạng thi đua, không đứng nhất hoặc đứng xa xa là mệt với các cô chủ nhiệm rùi. Những năm cấp 2, phong trào thi nghi thức mạnh lắm. Cô Sương bắt tụi tôi tập dữ lắm, nên sau này lớp tôi hay đoạt giải thi nghi thức đội. Ngoài ra, Thảo cận rất giỏi về các trò chơi và cách tổ chức sinh hoạt đội. À, hồi đó ngoài lớp trưởng, chi đội trưởng cũng oai lắm. Thảo cận là chi đội trưởng. Phan Vĩnh Phương lớp trưởng thì phải? Trò chơi lớn đi tìm mật thư thiệt vui, Thảo quá tinh nhuệ trong việc giải mã mật thư, lớp tôi đoạt giải mấy lần. Thường trò này tổ chức các buổi cắm trại. Văn nghệ hát múa lớp tôi cũng đỉnh cao, có Thảo, Thúy, Phạm Thủy hát thiệt hay ; Hoàng Nhi thì múa đẹp. Đội văn nghệ lớp tôi cũng là nòng cốt của trường, ngoài ra còn sinh hoạt với câu lạc bộ thanh thiếu niên do tỉnh đội phụ trách. Hồi đó các bạn nữ hay lên ti vi lắm.
    Thường thì tụi con gái yêu hòa bình. Nhưng con trai thì hay cự nự với tụi lớn hơn hoặc nhỏ hơn một tuổi, trong khi chơi thân với các khóa khác. Tụi tôi thân với khóa anh Sang (cháu ngoại thầy Sanh), anh Việt, anh Nam con thầy Hội… các anh đều là thành viên đội trống của trường, được ngưỡng mộ lắm. Cấp 2 các anh này học giỏi, nhưng cấp 3 ham chơi quá, việc học hỏng cả rồi. Anh Sang thì hiện không biết nhưng trước thấy thi mãi chả đỗ ĐH, nhưng anh Việt thì đang học cấp 3, bỏ đi làm lơ xe. Trên một lớp thì hay ghét anh Bảo (anh hai của Như Thảo, khakha, hồi đó do anh Bảo ngầu quá), anh Cảnh (em anh Chính, con nhà Văn Trung, lùn lùn, mập mập, ái ái mà sau này lên cấp 3 đòi cưa Hoàng Nhi, khikhikhi), anh Tuấn (con cô Trang, anh này đẹp trai, thư sinh lắm, sau này hình như cưa Ái Quyên), … Có lẽ, một phần do các anh hay đến « cưa » các em hay sao nhỉ, đấy gọi là « trai ta giữ gái làng ta » đấy. Nói chơi vậy chứ chắc do tụi con trai hay bốc đồng thôi, nhiều khi ức nhau tiếng gáy. Chứ như anh Minh đen, có ai ghen ghét chi mô nhỉ ! Lớp chọn trên một khóa, có mấy chị học giỏi, xinh đẹp như chị Tuyết, Hà, … và nhất là Dương Thảo Hiền, điển hình cho gương nghèo vượt khó. Khóa đó, có hai anh em sinh đôi học cùng lớp, ông anh chân bị tật, con nhà quan chức, nhưng cũng dễ mến. Hình như sau này có một người cưới bạn Việt Hà lớp C, gia đình cũng chuyển xuống sống ở Quy Nhơn từ hồi cấp 3. Nghĩ lại, hồi đó nhỏ quá chưa biết gì, chứ nếu lên cấp 3 học cùng trường, các chị bị cưa rồi cũng nên, hehheh. Cách nhau một năm, sau này tụi tôi năm đầu trường chuyên, năm lớp 11, cạnh tranh với các anh chị khóa này khi thi quốc gia đó. Ngoài ghét nhau từ trước, sau này còn ghét nhau vì ở hai chiến tuyến nữa chứ ! Đó là tính ấu trĩ của trẻ con đó mà. Giờ thì gặp nhau đều mừng vui hết. Lớp chọn sau một khóa, tụi tôi không ưa lắm Cao Trang Minh Tử, con trai thầy Nhân, và một bạn bé bé tên gì quên mất tiêu. Nhưng cũng phục và quý thằng Sơn, con trai thầy Nho và cô Châu.
    Lớp chuyên Toán, lớp 6 có thầy Kiểm và thầy Nhân dạy chính, thầy Kiểm thật hiền giọng nói nhỏ nhẹ, mái tóc muối tiêu, chuyên về Số học. Lớp 7, có thầy Sơn, thầy Thiện, thầy Nhân dạy. Lớp 8, thầy Sơn, Thiện, Nhân và cô Hà. Thầy Sơn học đại học ở Huế về, dạy rất hay và mang đến luồng gió mới cho tụi tôi. Thầy vẽ hình tròn bằng tay và viết chữ rất đẹp. Thầy rất gần gũi với học sinh, vui tính và hiền nhưng lúc nổi giận, đôi mắt như có lửa vì có những vằn máu đỏ lên. Tụi tôi sợ đôi mắt đó lắm. Giọng Huế nhỏ nhẹ, hay dùng từ « quý vị » với tụi tôi. Đến năm 1994, thầy Sơn chuyển lên trường chuyên và dạy lớp tôi năm 11. Hiện thầy là hiệu phó trường chuyên. Nói chung, tụi con trai thì lúc nào về GL cũng ghé nhà thầy, mời thầy đi lai rai và hàn huyên. Thầy Thiện học cao đẳng SP GL xong về dạy ở Hoa Lư 2, thầy nhỏ con, nhỏ nhẹ, trình bày bài giảng và chữa bài tập rất cẩn thận, rất chú ý đến trình bày bài. Mê thơ văn và nhạc, mãi đến cả lúc tốt nghiệp cấp 3, thầy và các bạn gái trong lớp vẫn rất gần gũi. Thi thoảng học ở HN về thăm thầy, thầy hay bảo tôi đọc thơ. Mối tình của thầy thì đẹp nhưng buồn và éo le. Một người học Toán mà lãng mạn cũng thiệt khổ. Về khoản này, tôi thấy bóng dáng thầy hiện hữu một phần trong tôi. Cách đây hai năm, về thăm GL, ghé thăm thầy thì người nhà bảo thầy đã lấy vợ, chuyển xuống ở đường CMT8. Tôi đi tìm mà không được. Cô Hà hình như sau này làm hiệu phó trường, cô đẹp nhưng hay cau có và mệt mỏi. Thầy Nhân là hiệu phó của trường, có cái bụng bự và rất dễ nổi nóng và quát học sinh. Sau này thành lập trường chuyên, Thầy chuyển về làm ở phòng GD thành phố. Hồi còn học, tụi tôi không thích thầy lắm, nhưng sau này lớn lên, mới thấy được tâm huyết của thầy đối với dạy chuyên và với học sinh.
    Lớp chuyên Văn thì tôi không nhớ ai dạy nữa. Chuyên Anh văn thì có thầy Quang, sau này cũng chuyển lên trường chuyên.
    Những năm này thiệt là thiên đường đối với tụi tôi. Tụi con trai góp tiền mua trái bóng da, buổi đi học chuyên về là ở lại đá bóng. Cái sân trường chổ học chuyên đã làm Bảy nổ hai lần gãy tay trái, nhìn cái tay cong queo mà phát sợ. Gãy lần lại lần thứ hai, phải nhập viện 211, mổ rắp lại xương, đóng đinh thép gia cố. Sau này có vết thẹo tim tím. Nhiều khi gặp nó, chỉ muốn mân mê chỗ thẹo ấy. Tuy ốm, hai lần gãy tay nhưng là libero rất xuất sắc. Lớp chỉ có Bảy nổ và Lai rai đá thòng hay thôi. Cái sân ấy nhỏ dần khi tụi tôi lớn lên. Sau này tách trường, tụi tôi chỉ học ở Phạm Hồng Thái, thi thoảng sang sân Tô Vĩnh Diện đá, cái sân này có cỏ nhưng mọc trên nền rải đá lởm chởm, đá thì đá chứ không thích. Nhà thằng Hải tặc ở khu tập thể trường Tô Vĩnh Diện, mẹ nó giáo viên tiểu học. Hai mẹ con ở với nhau, nhiều khi cũng thương nó lắm. Tính nó cũng thật thà, to xác nhưng hay bị bạn bè bắt nạt. Nhà thằng Dương ở đồi Lê-ốp, đạp xe đi học khá xa. Có bố, mẹ nó và nó ở đó trồng cà phê. Chị gái làm ở thủy điện Yaly nhưng văn phòng đóng tại Hoa Lư. Sau này thằng em nó mới vô hay sao đó. Nhà nó đi thẳng con đường ngang qua trường Tô Vĩnh Diện, vòng theo thung lũng tình yêu. Phía dưới đồi Lê-ốp là suối Đá. Ở Lê-ốp có một làng dân tộc sinh sống nên có một sân đá bóng mặt cỏ tự nhiên hẳn hoi. Sau này tụi tôi hay chạy ra đây, đá bóng, ăn uống linh tinh rồi đi tắm suối. Có lần hái trộm cả dưa leo. Có lần bày trò tát cá, cả buổi chả được con nào. Hồi đó lớp ít con trai, phải năn nỉ rủ đi cho đủ đội, lúc đá thằng Mai Quang Anh trông gôn còn giở sách ra đọc. Ngoài đá bóng, thi thoảng rủ nhau đi bơi ở hồ bơi nhà anh Bang cháu cô Hòa dạy Lý. Năm lớp 8, cô cứ xuýt xoa « Sao mà thằng Lai nó giống thằng Bang cháu cô thế », anh Bang đã chuyển ra Hà nội học. Tắm xong hay về nhà Bảy nổ chơi, hồi chưa mở đường, nhà Bảy nổ có cây mận xanh cũng ngon lắm. Bảy nổ tập lặn, làm một phát thiệt mạnh để chìm người, không ngờ mạnh quá, cạ xuống cả đáy, sứt mất cái răng cửa. Sau này nhổ đi trồng răng giả, có nó và Lai rai có răng giả lúc học cấp 3. Ngoài ra còn hay vô nhà thằng Thịnh chơi, nhà Thịnh vườn rộng, thiệt nhiều bơ, có mít, xoài, vú sữa, ổi, … tha hồ mà trèo leo. Từ nhà nó đi qua đập Đức An cũng có sân đất đá bóng, tụi tôi hay đá cùng xóm thằng Thịnh trong đó có anh em nhà thằng Vũ ngày xưa hàng xóm với Vương mập. Thằng anh thằng Vũ tên gì nhỉ, đá chân trái khá hay, dẻo hơn chân trái Vương mập, nhưng không trâu bằng, Vương tuy thấp nhưng chạy cũng nhanh, và dẻo dai lắm. Tôi hay vô nhà Thịnh nhất, hai thằng tập với nhau nên kỹ thuật lên nhanh. Ở hồ Đức An, cũng có bể bơi. Không thì thi thoảng nhảy ào tắm hồ, nhiều đứa chết rồi nhưng vẫn máu. Có khi tập hợp lại chạy lên sân nghĩa địa đá sân to, sân 11. Thi thoảng ra nhà thằng Hoàng ở Thống Nhất chơi, bắt ốc ở ruộng. Hoặc ra nhà Nguyên Ngọc, nhà Nam con cô Tính, nhà Phạm Thủy, Hồng Minh, Quang Anh, Danh Nguyên, Ý Thơ và Bích Huệ gần nhau, gần nhà cô Sửu. Thằng Nam chỉ cho cả đám làm la bàn, cũng hay phết. Nói chung là nhà nào cũng đã tụ tập, không có nhà bạn nào là không đến cả. Có nhà Ái Quyên thì không mời cũng tới. Tụi tôi hồi đó theo kiểu giang hồ kết nghĩa, lớn nhất là Minh rồi đến thằng Thịnh và Phương, Tuấn beo thứ năm (sau này cặp đôi Tuấn với Ngọc Thúy, kêu Thúy là chị năm, cũng muốn trêu Thúy nữa vì má Thúy là cô Năm mà), Lai thứ 6, Vương mập út thứ 7. Có lần tụi tôi chủ trương nhịn ăn sáng, góp lại đưa Bảy nổ giữ, cuối tuần sau giờ sinh hoạt, ghé nhà Ái Quyên ăn phở, xong chạy xuống quán bà Dũng ăn chè. Quà sáng thường là bánh mỳ thịt, xôi. Hay đến lớp rồi rủ nhau ra trước cổng trường ăn. Nhiều khi đứa có tiền đứa không, nhưng chia xẻ nhau hết. Mùa thi, có tôi, Vương, Phương hay tụ tập học nhóm ở nhà Tuấn beo. Trước khi đi ngủ làm chầu sinh tố ngon thiệt ngon ở đường Lý Thái Tổ. Buổi sáng ăn xôi hoặc bánh canh phái trước nhà Tuấn beo. Học nhóm nên thi cử đều ngon lành. Mà cũng chẳng nhớ kết quả học thế nào lắm. Vì tụi con trai thường chẳng háo điểm, chẳng thèm lắm danh hiệu học sinh giỏi hay tiên tiến. Chỉ có học chuyên là gắng thôi. Thằng Phương thì hầu như ở nhà Tuấn. Hai đứa thân nhau lắm. Đợt học đại học, nhậu xong, Tuấn đèo Phương rồi té xe, Phương phải nhập viện mổ sọ não. Đợt tháng 10 năm ngoái, Tuấn vô SG chơi, rủ Phương đi nhậu, Phương khoe sắp lên phó TBT báo thể thao, chưa kịp mừng xong thì trên đường về tai nạn, qua đời. Hỡi ôi, duyên nợ hai đứa mày từ mấy kiếp sao thắm thiết mà ngắn ngủi vậy trời. Ở nhà Tuấn beo, còn được các đại ca lớp anh Dũng – anh trai Tuấn, truyền dạy đánh côn nhị khúc. Thằng beo còn đầu độc tụi tôi đọc truyện Tàu, truyện kiếm hiệp, phim video. Hồi lớp 7, anh trai Phương (cùng lớp 9 với anh Dũng) đánh nhau với tụi côn đồ khu vực quanh trường, sau phải nghỉ học. Đến hết lớp 7, thằng Dương nghĩ học đi làm, tụi tôi thi thoảng tụ tập thăm nó thôi, cũng ít ra Lê-ốp. Từ đó hay vào nhà Thịnh hơn.
    Tan trường, nhà Tuấn beo và Phương quẹo lối Phan Đình Phùng thì gần nhưng vì muốn đi chung nên đi theo Trần Hưng Đạo đến ngã tư với Quang Trung thì Minh và Vương mập rẽ trái về nhà ; Thịnh đi tiếp Trần Hưng Đạo rồi đâm xuống lò bò; Lai hoặc đi cùng Thịnh đến Hùng Vương thì rẽ lên hoặc cua phải đi cùng Tuấn beo và Bảy nổ. Đến cái hẻm ở Hai Bà Trưng thì Bảy nổ đi bộ về nhà. Tuấn beo đạp đến Đinh Tiên Hoàng quẹo phải về Yên Đỗ ; Lai rẽ trái về Hùng Vương. Có những đợt nổi hứng, buổi sáng đi bộ sớm hoặc nhờ người chở đi học, để buổi trưa đi bộ về nhà, vừa đi vừa nghịch nên vui và chẳng thấy mệt. Cấp hai hay cặp đôi Thịnh với Thiên Dung, nên trêu Thịnh là Thế Thiên tức ghép Thế Thịnh và Thiên Dung ; Tuấn và Thúy ; Vương và Phạm Thủy ; … Tuy vậy con trai ít chơi với con gái, hay đấu khẩu nhau và có lúc còn đánh nhau. Giờ nhớ lại mấy vụ đánh nhau của con trai và con gái thấy xấu hổ lắm. Chỉ có Lai không đến nỗi ghét con gái lắm, hồi Nga rủ đi học nhóm ở nhà Nga, với Phượng và Thiên Dung thì cũng đi (ba bạn này thân nhau từ lớp mẫu giáo). Phạm Thủy và Hồng Minh thân vì cạnh nhà nhau, bố của hai bạn cũng làm cùng cơ quan, ông Phó Giám đốc, ông Giám đốc sở Y tế GL. Danh Nguyên và Quang Anh thân. Bích Huệ, Ý Thơ, Nguyên Ngọc thân nhau. Quyên, Thảo, Thúy và Cao Thủy thân nhau, nhà cùng khu. Hà toán và Nhi thân, ba Hà là bác sĩ Quảng mở phòng khám ở nhà Nhi. Hiền đen, Thanh Thủy và Thùy Dung một nhóm. Võ Quốc Phong đá bóng hay, thuận chân trái, sau này có đá trẻ GL rồi HA-GL nhưng không xuất sắc lắm, giờ không biết làm gì. Nhưng hồi đó nó chỉ đá với tụi xóm nó, không chơi cùng tụi tôi lắm. Các bạn còn lại không thân nhau với ai rõ rệt.
    Tôi hay phụ ông già làm rèn hoặc làm rẫy với bà già nên phát triển sớm, bể giọng đầu tiên hồi đầu lớp 7. Nhớ năm lớp 6, đi học chuyên, tôi còn dám nhảy từ trên mái nhà xuống đất. Rồi mấy năm đó, tôi thuộc diện nhảy cao nhất lớp. Thằng Thịnh hồi cấp 1 phải đi chăn bò sau giờ học. Sau nhà nó bán bò đi, nó chỉ làm vườn. Nhà Vương mập chuyển xuống Trà bá, nó hay phụ ba má bán hàng. Nhà Kim Phượng ở ngã ba Hoa Lư, cũng hay phụ giúp gia đình buôn bán. Nhà Bảy nổ bán hàng ở chợ, buổi chiều hay giúp má dọn hàng. Các bạn khác đều phị giúp gia đình chuyện nấu cơm nuôi heo và trồng trọt. Nhìn chung tuy mỗi bạn một cảnh nhưng trong lớp không có ai kênh kiệu, tỏ ra công tử hay tiểu thư cả. Tụi tôi chơi với nhau bình dị, tương đồng, chia sẻ và giúp đỡ nhau. Còn nhớ nhà Vương mập có bàn bi lắc, tụi tôi hay xuống đó chơi. Sau này, tôi và Thịnh thi thoảng xuống nhà Vương học nhóm. Hoặc Vương và tôi vô nhà Thịnh. Thịnh và Vương lên nhà chị Hà của tôi học. Nói chung học nhóm rất tùy lúc, lúc này lúc kia, luôn thay đổi. Nhà Thịnh có nhiều sách lắm. Ba nó ngày xưa dạy học mà. Hồi đó, tụi tôi rất thích tìm và mua sách Toán. Có quyển nào hay là tôi mua liền. Có lẽ, ham đọc sách là một trong các tính tốt của tôi. Chứ hồi nhỏ nhiều tính xấu lắm. Khikhi, dậy mà bạn bè chịu được ! Tôi rất nóng tính và hay tự ái và hay thẹn, ngượng là đỏ chín mặt, hay mơ mộng và đặc biệt bướng bỉnh. Càng lớn tôi chẳng giống ai trong nhà, cả về hình thức lẫn nội dung, và càng lớn càng lập dị. Thế giới của tôi là trường lớp, bạn bè. Tôi rất cởi mở cũng hay ba hoa với bạn bè, nhưng về nhà lại ít lời và lặng lẽ, thường chỉ một mình đọc sách, đá bóng trước nhà hoặc làm rèn. Ôi, lửa của lò than nóng bỏng, những tia rĩ sắt bắn tung tóe, cháy xém thịt da, những tiếng sắt thép va nhau chát chúa, mồ hôi chảy nhễ nhãi lưng trần bám bụi than nhầy nhụa … đã làm nên một thằng tôi đầy cá tính chăng ? Một mặt mộng mơ và mềm lòng, hay xúc động. Một mặt lì lợm, bướng bỉnh và lý trí. Những lần đá bóng, ngón chân bê bết máu, vẫn kiên cường đá và không chịu buông xuôi. Từ một đứa học hành bình thường năm cấp 1, đã vươn lên bên cạnh bạn bè, và may mắn có được vài kết quả tốt, thuận lợi. Có lẽ, đó là do số phận đã mỉm cười khi đưa đẩy tôi đi vào môi trường như vậy. Đôi lần tôi tự hỏi, nếu tôi cũng như trinh, Trung, Cảnh ở lại trường Diên hồng, bây giờ sẽ ra sao nhỉ ? « Nếu như không theo học lớp tôi / Ai biết được đâu cái đường đời / Có lẽ đó là do số phận / Số phận tôi và lớp của tôi ». Thực lòng mà nhận xét, tôi không thông minh bằng Thịnh, không chăm chỉ như Quang Anh, Hiền Vương, không sắc sảo như Tuấn beo, không thâm trầm như Bảy nổ ; … Có lẽ tôi may mắn hơn bạn bè. Và có lẽ một phần, khi đam mê gì, tôi đeo đuổi theo điều đó bằng hết sức lực của mình. Nên nhiều khi, cuộc sống tôi rất giản đơn, và tương lai có lẽ gập ghềnh, đầy bất trắc.

    Nãy giờ toàn viết về một nhóm con trai, là do họ gần gũi với tôi nhất. Các bạn khác thì mang máng nhớ. Như là Danh Nguyên có tật nói nhanh nên đôi khi nói lắp ; Quang Anh giọng Bắc đặc ri ; có đứa em trai láu lỉnh hơn Nam nhiều và được tụi tôi thân ái gọi Mai Quang Em ; Ý Thơ hiền lành nhỏ nhắn và nhỏ nhẹ, giọng Quảng Nghĩa nghe vui vui ; Ái Quyên giống con trai lắm, ưa các hoạt động mạnh mẽ và đôi má hây hây hồng; Cao Thủy tưng tửng, chanh chua giống Phượng vui và đanh đá ; Ngọc Thúy dịu dàng, thùy mị ; Như Thảo e ấp tựa thảo mai ; Phạm Thủy đầy cá tính ; Hồng Minh nhu mì ; Bích Huệ và Nguyên Ngọc xinh kiểu rất Bắc kỳ và khép kín ; Thúy Nga xinh và khôn như chấy ; Minh Hoàng xởi lởi và ba hoa ; Hoài Nam hiền, ít nói và cộc ; Vinh thì ba gai ; Huy cộc tính và cũng ít nói ; Phong nghênh ngang ; Hải cục mịch ; Dương xuề xòa ; hai Dung thùy mị ; Trúc Phượng hay nhăn nhó, thiếu tự tin ; Thanh Thủy xinh và mềm mại như dòng nước xanh ; Hiền đen vui vẻ, ồn ào ; Thanh Mai nói lắm và nói hệt các sản phẩm của lò Bon-se-vich, nên được đặt cháu Bác Hồ, nhưng hát dân ca Bắc bộ thiệt hay và viết văn mượt mà phết ; Thế Phiệt nhỏ nhẹ và hóm hỉnh ; Minh Hiền có ánh mắt xa xăm ;
     Thiệt khó miêu tả một người nào đó vì tôi vốn chú ngựa bụng dạ thẳng tuột, chất phác và xuề xòa, xởi lởi và có thể nói là hời hợt dù rằng hay cảm tính và nhạy cảm theo kiểu bản năng. Nhìn tổng thể và đánh hơi chơi được, thế là đủ, chẳng xét nét gì nữa. Mặc dù đọc truyện thích các nhân vật hào hùng, đảm lược và lãng tử nhưng tôi thấy mình có vẻ giống Quách Tỉnh hơn (dù không khoái anh ta lắm) : khù khờ, nhẹ dạ nhưng cuối cùng võ công cao ; chỉ khác là chưa có cô nào xinh tươi và giỏi giang như Hoàng cô nương để ý, khihkhi, đáng tiếc đáng tiếc. Hình như ai đó đã nhận xét tôi thế này : « … Anh xởi lởi suốt ngày / Mà nóng còn hơn lửa / Em bảo: Anh - khối mâu thuẫn biết thở / Trái tim anh tạo từ hai nửa / Nửa rất trẻ con, một nửa người già … ». Vậy đó, tôi sinh ra là người của chuyên môn, làm chuyên gia và khù khờ trong cuộc sống phức tạp này. Phương châm sống : tái ông mất ngựa và thuyết tương đối tức là thuyết hổng có gì là tuyệt đối cả chứ chẳng liên quan gì đến cha Einstein hết (zậy đó, Einstein tôi còn gọi là thằng chả, nghĩa là theo tôi ai cũng bình đẳng hết). Hồi nhỏ bắt chước người nhớn sắm cuốn sổ định viết nhật ký, ai dè, ngày … tháng … năm…, hôm nay đau bụng ba lần là chấm hết. Giờ muốn viết về bạn bè, thiệt khó. Viết văn quả thực cực nhọc chứ không như làm thơ ; tôi làm thơ như ngựa hý vậy mà, có lẽ thuộc về bản năng còn chuyện hý hay hay hý dở không phải là quan trọng bởi vì dân nghiệp dư thì sợ gì các nhà phê phán học chứ. Viết thì cũng rặn ra được, nhưng ăn nói thì dở tệ. Khoản viết hay và nói giỏi thì giành cho Bảy nổ. Cả lớp xưa nay và sau này trên các diễn đàn kể cả báo chí, mấy ai lý lẽ lại hắn chứ. Chẳng qua có Tuấn beo hay cãi cùn hơn và móc họng nên nhiều khi hắn đành potay.câm. Tổng thể con người hắn từ ăn mặc, dáng dấp (dù gầy) và khuôn mặt có mị lực gì đó cho người ta thích. Điểm nhấn của khuôn mặt là cái mũi khằm diều hâu, biểu hiện của sự thâm trầm, khó ai đoán được suy nghĩ của hắn. Tuấn beo có nhiều nét giống Lưu Bang ngày xưa, thích quảng giao thiên hạ, ăn nói vui vẻ, dễ nghe, rất sắc sảo và rất được lòng người khác. Điểm khiến người đối diện chú ý nhất là đôi mắt beo của hắn, đôi mắt thiệt sắc giống hệt bà già nó, nên được cưng nhất nhà cũng phải.


*****


Lớp 9, 1992-1993, Phạm Hồng Thái

By: Lai Truong Phuoc on Sunday, 25 April 2010 at 14:46      



    Hết năm lớp 8, lớp bắt đầu có sự thay đổi. Một mặt, các bạn lớp chuyên phải kiểm tra cuối năm để xem xét có được tiếp tục học không, một mặt có kỳ thi học sinh giỏi cấp thị xã để chọn thêm các bạn vào học lớp chọn ở Hoa Lư 2. Lần này thì Lai được tái ngộ các khuôn mặt cũ : Duy Trinh, Huy Cảnh (Toán), và Đức Trung (Anh). Lớp 8 có Minh Hoàng, Thanh Thủy, Quốc Huy chuyển lên Kon Tum. Các bạn còn lại là Lai, Tuấn, Thịnh, Vương, Quang Anh, Danh Nguyên, Minh Hiền, Võ Thủy (Toán), Phương, Thúy, Cao Thủy, Như Thảo, Nguyên Ngọc, Bích Huệ (Văn); Nhi, Quyên, Nga, Phượng, Thiên Dung, Ý Thơ (Anh).
    Từ Diên Hồng xuống còn có bạn Lê Thị Miên, chuyên Anh. Chủ nhà Hoa Lư có Phạm Ngọc Thảo (Toán) và Hồ Mỹ Thuật (Anh) từ lớp 85, sau này tụi tôi ghép thành đôi. Hội thương có Nguyễn Đức Toàn (Toán) sau được thằng Thịnh đặt là Thượng Hôi tức nói lái lại của Hội Thương, nó đá bóng khá hay, mỗi tội ham rê lắm (Năm đó đội tuyển trường Hoa Lư 2 có tôi và nó, đá thua Yên Đỗ, ông này về nhà sách gậy đòi rượt đội bạn, khekhe). Yên Đỗ có khá đông gồm Nguyễn Thị Sương (em gái anh Sang, cháu ngoại thầy Sang) ; Mai Phương ; bạn Tâm mà sau tụi tôi trêu là Độc Thủ Phật Tâm theo tên một chuyện kiếm hiệp ; Nguyễn Thị Thu Hà (Anh) ; Hiếu ; Phong (em trai anh Mẫn, chuyên Hoa Lư cũ trên tôi 3 khóa) ; và Võ Công Phúc (Toán).

    Cấp hai, mỗi lớp thường có 4 tổ, tôi ở tổ 3, hai bàn đầu phía tay phải đối diện bảng đen. Bàn đầu có Thảo cận, và Phúc, Quyên tổ trưởng và Hiếu ? Bàn 2 có Thiên Dung tôi, rồi ai nữa nhỉ. Chỉ biết hồi đó hay có trò ăn vụng bánh đậu xanh. Thơ rằng : « Mai lục lại còn sót gì trong cặp / Vẫn thoảng hương kỷ niệm bánh đậu xanh / Trong giờ học giả vờ cúi mặt / Bánh lột ra, nuốt vội vẫn ngon lành ». Từ năm lớp 9, cảm hứng Mực tím, Hoa học trò và Áo trắng chắp cánh những lãng mạn thời mới lớn, những xao động đầu đời và những mối tình học trò nhen nhóm theo các trang văn của Đoàn Thạch Biền, Nguyễn Nhật Ánh, Đoàn Vị Thượng, Mường Mán và Từ Kế Tường. Tôi, thỉnh thoảng ngẩn ngơ mơ mộng, theo đuổi những câu thơ con cóc. Viết ra mảnh giấy nháp, và chuyển hết cho Thiên Dung giữ. Hồi đó làm nhiều lắm nhưng chỉ còn nhớ vài bài như là : « Tôi sẽ nói ghét tổ trưởng của tôi / Vì tôi biết ngàn xưa vẫn vậy / Ghét của nào trời trao của ấy… ».

    Cô Mai chủ nhiệm dạy Văn, cô khá nghiêm, hồi đó tụi tôi không gần gũi cô lắm, nhưng sau này lên cấp 3 và cho đến bây giờ, lúc nào cũng gần gũi với cô hết. Cô Hòa dạy Lý, vẫn cưng Lai nhất lớp. Cô Chiến dạy Hóa và Sinh, cưng tôi lắm, nhớ có bài kiểm tra tôi đáng chỉ được 9 điểm, cô lại cho bài toán hóa từ 5 điểm thành 5đ rưỡi, thế là thành 9đ rưỡi làm tròn 10. Có Tuấn beo biết nhưng tụi tôi thôi, không để ý gì, vì thực ra điểm học ở lớp hổng có quan trọng bằng học chuyên và thi quốc gia. Thầy Tương dạy Kỹ Thuật. Cô Hà dạy Toán, một hôm gọi bạn Nguyên Ngọc lên kiểm tra, bạn không trả lời được, cô hỏi thế theo các em cho bạn mấy điểm. Tôi trót nói leo, 9đ ạ. Thế là cô lôi tôi lên, mắng một trận rồi hỏi, thế cho bạn 9 và em 1 nhé, tôi chịu luôn.

    Năm lớp 9, tụi con trai bắt đầu đá độ với các lớp khác. Có 13 đứa con trai, phải dụ tụi nó đá cho đủ đội hình, nhiều hôm Trinh còm đá, bị trái banh trúng ngực đến khó thở, tội ghê. Thế mà, đá với 92, 94, 95 đều không thua, do tính quyết thắng và chiến thuật hợp lý. Năm này, có cắm trại nhân ngày 20/11, tôi và Nga thi nấu cơm kiểu con trai bị trói tay, hướng dẫn bạn gái bịt mắt nấu cơm, đoạt giải nhất, vui ghê. Dịp Tết ta, tụi tôi trốn học ra thung lũng chơi, may mà thầy Phúc cưng không đánh đòn chỉ rầy sơ sơ (tụi học sinh trường Hoa Lư 2, kể cả những đứa cứng đầu, có đứa nào không ớn cây thước to và dày của thầy nhỉ). Đợt đi tập trung đội tuyển trên trung tâm ngoại ngữ, cũng lắm chuyện khôi hài. Bắt đầu tụ tập bida ở nhà ông Mai trước nhà Trinh. Năm đó có mấy giải khuyến khích Toán còn Văn và Anh không nhớ nữa.

    Còn quá nhiều kỷ niệm và khá nhiều nét tính cách của bạn bè mà tôi chưa thể viết ra được, đành nhờ thêm bạn bè bổ sung và hoàn thiện. Dạo này cũng nhiều việc, tranh thủ viết ra chừng ấy thấy cũng nhẹ lòng. Để viết ra hết, chắc phải đi học khóa viết văn Nguyễn Du quá, dạo này các bác ấy cho đóng tiền để học viết văn. Anh em xem xét góp gạo cho Lai rai đi nâng cao cái nhẻy, khekhekhe.


Trương Phước Lai               
France